1. Nam nữ chung sống như vợ chồng có vi phạm pháp luật không khi chưa đăng ký kết hôn

Theo Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản hướng dẫn liên quan, việc nam nữ chưa đăng ký kết hôn mà sống chung với nhau như vợ chồng không bị coi là vi phạm pháp luật và không bị xử phạt hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự.

“Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

2. Cấm các hành vi sau đây:

a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

h) Bạo lực gia đình;

i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

4. Danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.”

Như vậy, chỉ những người nào đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thì tùy theo trường hợp có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 147, Bộ luật Hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng.

Và theo quy định tại Điều 3 Luật Cư trú về quyền tự do cư trú của công dân thì

“Công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”.

Nếu bạn và người nữ đó là người chưa có chồng, chưa có vợ thì việc thuê phòng trọ sống chung không bị coi là vi phạm pháp luật, nhưng khi cư trú bạn phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký tạm trú cho cả hai theo đúng quy định của Luật Cư trú. Nếu không đăng ký tạm trú, sẽ bị xử phạt hành chính.

2. Xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự như thế nào?

Trường hợp hành vi chung sống như vợ chồng ở mức độ ít nghiêm trọng, có thể bị áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định tại Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

  • Đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn với người khác; chưa có vợ hoặc có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có vợ hoặc có chồng
  • Đang có vợ hoặc có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác
  • Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ hoặc có chồng

Trường hợp hành vi chung sống như vợ chồng với người khác mà hậu quả để lại là nghiêm trọng hơn thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Theo quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 thì:

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn.

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát.

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó”.

3. Quyền nuôi con và tài sản khi ly hôn nhưng không đăng ký kết hôn

Quyền nuôi con khi ly hôn mà chưa đăng ký kết hôn

Con cái là một trong những vấn đề quan trọng nhất khi ly hôn; con chung sẽ do ai nuôi; ai được quyền nuôi con sau khi ly hôn?

Trường hợp ly hôn mà không đăng ký kết hôn thì quyền; nghĩa vụ của các bên đối với con sẽ được giải quyết giống như trường hợp ly hôn bình thường.

Như vậy, quyền nuôi con sẽ được giải quyết theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Quyền nuôi con, về cơ bản sẽ dựa theo các căn cứ sau:

– Thỏa thuận của các bên

Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các bên. Căn cứ dựa trên việc bảo đảm quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.

– Điều kiện của các bên:

Tòa án sẽ ưu tiên quyền nuôi con cho bên đảm bảo con lợi ích tốt nhất về vật chất; tinh thần…

– Độ tuổi của con:

Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi; Con từ đủ 36 tháng tuổi đến dưới 07 tuổi được giao một bên nuôi theo lợi ích của con. Con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Quyền tài sản của nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về giải quyết quan hệ tài sản; nghĩa vụ của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:

“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ; công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.”

Như vậy, pháp luật công nhận sự thỏa thuận của các bên khi giải quyết quan hệ tài sản. Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì giải quyết theo quy định; có tính đến công việc của mỗi bên và quyền, lợi ích của phụ nữ và con.

Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 quy định về chia tài sản thuộc sở hữu chung như sau:

“1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình; trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.

2. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung; trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật; hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”